Tìm hiểu về quá trình hình thành và chức năng, nhiệm vụ của Thừa phát lại

Thừa phát lại là một trong những chế định mới xuất hiện trong quy định của pháp luật Việt Nam trong những năm gần đây. Do vậy không phải ai cũng hiểu được khái niệm Thừa phát lại là gì? Chức năng, nhiệm vụ của Thừa phát lại theo quy định của pháp luật như thế nào. Để góp phần tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật về Thừa phát lại đến với cơ quan, tổ chức và người dân. Người viết tập trung vào các nhóm vấn đề như: Quá trình hình thành; khái niệm; các công việc được làm của Thừa phát lại; tiêu chuẩn bổ nhiệm Thừa phát lại và kết quả triển khai thực hiện chế định Thừa phát lại trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

1. Quá trình hình thành Chế định thừa phát lại ở Việt Nam.
Chế định Thừa phát lại đã hình thành và phát triển khá lâu trên thế giới. Cái nôi cho sự phát triển, hành nghề Thừa phát lại trên thế giới bắt nguồn từ Cộng hòa Pháp. Ở Việt Nam, chế định Thừa phát lại đã xuất hiện từ thời Pháp thuộc, miền Bắc gọi là Chưởng tòa, miền Trung gọi là Mõ tòa, miền Nam là Thừa phát lại. Sau Cách mạng tháng 8/1945, Chế định Thừa phát lại tồn tại đến năm 1950 đối với miền Bắc, còn miền Nam nó tiếp tục phát triển đến năm 1975. Vì nhiều lý do khác nhau mà Nhà nước ta không tiếp tục duy trì chế định này.
Sau nhiều năm không xuất hiện trong các văn bản pháp luật và cả thực tiễn áp dụng; đến ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đã xác định: “Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình… từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”; “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.
Trên cơ sở Nghị quyết số 49-NQ/TW, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã ban hành Kế hoạch số 05-KH/CCTP ngày 22/02/2006, trong đó đã xác định rõ nhiệm vụ của công tác xã hội hóa trong lĩnh vực thi hành án dân sự đó là “Nghiên cứu mô hình tổ chức Thừa phát lại, trước mắt tổ chức thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh”.
Ngày 01/7/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg về việc tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, đã yêu cầu Bộ Tư pháp hoàn thành việc xây dựng Đề án Thừa phát lại báo cáo Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương và Chính phủ xem xét, thông qua.
Ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự, Nghị quyết đã khẳng định: “Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến hết ngày 01/7/2012”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội, ngày 24/7/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 224/QĐ-TTg ngày 19/02/2009 phê duyệt Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh”. Có thể nói rằng, năm 2009 là mốc quan trọng đánh dấu chính thức việc khai sinh lại tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam. Trên cơ sở kết quả thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23/11/2012 Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và giao Chính phủ tiếp tục tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ nay đến hết năm 2015.
Ngày 18/10/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 510/QĐ-TTg ngày 25/3/2013 phê duyệt Đề án “Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại”, mở rộng thí điểm chế định Thừa phát lại từ 12 đến 15 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, Chế định Thừa phát lại đã được thực hiện thí điểm tại 13 địa phương với 53 Văn phòng Thừa phát lại.
Từ kết quả triển khai thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực hiện chế định Thừa phát lại. Theo đó, Nghị quyết này cho phép chế định Thừa phát lại được thực hiện chính thức trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/2016. Ngày 14/01/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 101/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị Quyết số 107/QH13 ngày 26/11/2015 của Quốc hội về thực hiện chế định Thừa phát lại. Ngày 08/01/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, thay thế Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP của Chính phủ. Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 05/2020/TT-BTP ngày 28/8/2020 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ.

2. Thừa phát lại là gì?
Khái niệm Thừa phát lại được quy định tại khoản 1, điều 2 Nghị định 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại như sau: ” Thừa phát lại là người có đủ tiêu chuẩn được Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án dân sự, tổ chức thi hành án dân sự theo quy định của Nghị định này và pháp luật có liên quan”.

Chức danh Thừa phát lại được dùng để chỉ một người do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để thực hiện một số chức năng giống với thẩm quyền của công chức nhà nước nhưng lại không phải cán bộ, công chức nhà nước. Thừa phát lại là một chức danh bổ trợ tư pháp, giống tên gọi của một số chức danh tư pháp khác như: thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, công chứng viên… Thừa phát lại không phải là công chức, không phải người đại diện cho nhà nước, nhưng Thừa phát lại được nhà nước tuyển chọn theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt và bổ nhiệm để làm một số công việc thuộc thẩm quyền của Nhà nước.

3. Những công việc Thừa phát lại được làm.
Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ về Thừa phát lại là quy định mới nhất có hiệu lực pháp luật trong lĩnh vực này quy định về các công việc Thừa phát lại được làm, cụ thể tại Điều 3, Nghị định số 08/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định như sau:
(1)Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu; (2)Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; (3) Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; (4) Tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự theo quy định của Nghị định 08/2020 và pháp luật có liên quan.
– Thứ nhất, chức năng Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu. Thông thường, trong quá trình thực hiện công việc của mình các cơ quan tư pháp để giải quyết được các yêu cầu của người dân phải có sự liên hệ để thông báo, chuyển tài liệu thông qua hoạt động tống đạt. Nhưng với nguồn nhân sự không lớn và phải giải quyết rất nhiều công việc, các cơ quan tư pháp không phải lúc nào cũng có thể chuyển các văn bản đến người dân một cách nhanh chóng và chính xác. Do đó, sự tham gia của các tổ chức tư nhân ( các Văn phòng Thừa phát lại) vào quá trình tống đạt là một giải pháp tốt. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan thi hành án dân sự sẽ ký kết hợp đồng với Văn phòng Thừa phát lại, Thừa phát lại hoặc các Thư ký nghiệp vụ sẽ trực tiếp thực hiện chuyển các hồ sơ, tài liệu đến người dân theo phương thức được cơ quan nhà nước yêu cầu và thông báo kết quả lại cho cơ quan đã kí hợp đồng về việc tống đạt. Một số giấy tờ thuộc thẩm quyền Thừa phát lại có thể tống đạt được quy định tại nghị định 08/2020/NĐ-CP như sau:
+ Đối với giấy tờ, hồ sơ, tài liệu của Tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự: Giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời, thông báo, quyết định đưa vụ án ra xét xử, bản án, quyết định, quyết định kháng nghị của Tòa án; thông báo, quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân; quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập, thông báo của cơ quan thi hành án dân sự.
+ Đối với giấy tờ, hồ sơ, tài liệu có liên quan đến tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, các loại văn bản này sẽ được thực hiện tống đạt theo yêu cầu và hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa Văn phòng thừa phát lại và Bộ tư pháp.
– Thứ hai, chức năng Lập vi bằng. Vi bằng là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật.
Lập vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Do đó việc lập vi bằng theo đúng quy định sẽ giúp bên yêu cầu hạn chế được rủi ro có thể xảy ra. Vi bằng được chia làm 2 loại là vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi và vi bằng ghi nhận hiện trạng. Trong đó, Vi bằng ghi nhận hiện trạng có thể lập khi các bên kết hôn, ly hôn hoặc trong trường hợp ghi nhận di sản thừa kế; Xác nhận tình trạng tài sản bị hư hỏng do hành vi của người khác; Tình trạng tài sản liền kề trước khi xây dựng công trình….. Vi bằng ghi nhận sự kiện, hành vi gồm một số trường điển hình như: Lập vi bằng ghi nhận việc giao nhận tài sản, giao nhận tiền; Lập vi bằng ghi nhận việc họp của công ty; Lập vi bằng ghi nhận việc đặt cọc; Lập vi bằng ghi nhận việc báo chí đưa tin sai sự thật; Lập vi bằng ghi nhận việc sử dụng thông tin hình ảnh người khác trái pháp luật…
– Thứ ba, xác minh điều kiện thi hành án. Theo quy định của Nghị định 08/2020/NĐ-CP, Thừa phát lại có quyền xác minh điều kiện thi hành án mà vụ việc đó thuộc thẩm quyền thi hành của các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở và việc này được thực hiện dựa trên yêu cầu của người yêu cầu ( thường là bên có quyền trong vụ việc). Thủ tục thực hiện xác minh sẽ được thực hiện như sau: Khi đã tiếp nhận yêu cầu và các tài liệu của khách hàng, Trưởng Văn phòng Thừa phát lại ra quyết định xác minh; Việc xác minh được tiến hành bằng văn bản yêu cầu hoặc trực tiếp. Nếu việc xác minh được thực hiện bằng văn bản thì Thừa phát lại phải lập công văn trong đó nêu rõ đối tượng cần xác minh, các nội dung cần xác minh, thông tin cần cung cấp… sau đó gửi đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân cần xác minh, cung cấp thông tin để yêu cầu cung cấp các thông tin cần thiết liên quan đến việc xác minh. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện yêu cầu của Thừa phát lại và chịu trách nhiệm về nội dung thông tin đã cung cấp.
Khi trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án của đương sự, Thừa phát lại phải trực tiếp thu thập thông tin, gặp các bên liên quan hay trực tiếp đến nơi có tài sản để xác minh về tình trạng tài sản của người phải thi hành án. Việc xác minh phải được lập thành biên bản. Biên bản xác minh phải có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh. Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác minh.
– Thứ tư, Tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Thừa phát lại chỉ thực hiện thi hành án trong các trường hợp:
+ Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện và bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.
+ Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định sơ thẩm, chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở.
+ Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Văn phòng Thừa phát lại đặt trụ sở. Tóm lại, Thừa phát lại được thi hành án dân sự với các bản án, quyết định có hiệu lực đã được xét xử sơ thẩm tại tòa án nhân dân trong phạm vi tỉnh mà Văn phòng Thừa phát lại có trụ sở.

4. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Thừa phát lại.
Điều 6, Nghị định 08/2020/NĐ-CP quy định: Người được bổ nhiệm Thừa phát lại phải là công dân Việt Nam không quá 65 tuổi, thường trú tại Việt Nam, chấp hành tốt Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt. Bên cạnh đó, để phù hợp với tính chất công việc, Thừa phát lại phải có nền tảng chuyên môn, nghiệp vụ nhất định, cụ thể: Có bằng tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học chuyên ngành luật; Có thời gian công tác pháp luật từ 03 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học chuyên ngành luật; Tốt nghiệp khóa đào tạo, được công nhận tương đương đào tạo hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề Thừa phát lại; Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Thừa phát lại.
Người có đủ tiêu chuẩn nêu trên nộp trực tiếp hoặc gửi qua hệ thông bưu chính 01 bộ hồ sơ đề nghị bổ nhiệm Thừa phát lại đến Sở Tư pháp tại nơi đăng ký tập sự. Hồ sơ thực hiện theo quy định tại Điều 10, Nghị định 08/2020/NĐ-CP.

Có thể nói rằng, việc tái thành lập tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở nước ta thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc cải cách tư pháp, xã hội hóa một số hoạt động của cơ quan nhà nước; thể hiện nỗ lực của cơ quan chức năng từ Quốc hội, Chính phủ đến các Bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trong việc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động Thừa phát lại. Hiện nay, mô hình Thừa phát lại đang được hình thành và phát triển tại các tỉnh, thành phố trong cả nước, góp phần tích cực, hiệu quả trong việc chia sẻ trách nhiệm, công việc với nhà nước và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.

Đối với tỉnh Quảng Nam, ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại; UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành Kế hoạch số 1602/KH-UBND ngày 24/3/2020 về triển khai Nghị định số 08/2020/NĐ-CP; Quyết định số 1174/QĐ-UBND ngày 23/4/2020 về ban hành Đề án phát triển Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030; Công văn 3281/UBND-NC ngày 02/6/2021 về thống nhất chủ trương triển khai hệ thống cơ sở dữ liệu vi bằng; Quyết định số 1980/QĐ-UBND ngày 16/7/2021 về cấp kinh phí để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu vi bằng và Công văn số 6081/UBND-NC ngày 10/9/2021 gửi các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, TAND tỉnh, VKSND tỉnh, Cục THADS tỉnh để phối hợp triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về thừa phát lại. Qua hơn 1 năm thực hiện Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, tỉnh Quảng Nam đã thành lập được 04 Văn phòng Thừa phát lại, bước đầu đã phát huy được hiệu quả tích cực (Các Văn phòng Thừa phát lại đã lập được trên 300 vi bằng; tống đạt được trên 1.500 văn bản, thu phí trên 600 triệu đồng, nộp ngân sách gần 20 triệu đồng), góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động bổ trợ tư pháp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong các giao dịch dân sự, kinh tế./.

                                                                                     Bùi Xuân Hiếu

                                                                Nguồn:http://sotuphapqnam.gov.vn